
Trong văn hóa Nam Kỳ ta hay nghe rằng “Xe đò lục tỉnh”, ”Miền lục tỉnh”, ”Bến xe lục tỉnh”, ”Đại lộ lục tỉnh”, ”Ghe tàu lục tỉnh”….và người Lục Tỉnh.
“Anh đi lục tỉnh bốn bề
Mải lo buôn bán không về thăm em.”
Xe đò Lục Tỉnh là gì? chữ xe đò có bà con những chuyến đò sông nước, là vết tích của văn minh sông nước Nam Kỳ xưa.
Nói tới xuồng ghe Lục Tỉnh thì nói tới khuya không hết.
Là vì xứ mình có hệ thống sông rạch, kinh đào dày đặc, chằng chịt. Ở khúc sông Đồng Nai đã nhiều, về châu thổ Cửu Long còn nhiều hơn, khúc giữa là hệ sống Vàm Cỏ của Long An.
Tổng chiều dài của kinh rạch này lên đến 4.900 km.
”Ở Gia Định chỗ nào cũng có thuyền ghe hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, đi thăm người thân thích hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông, ngày đêm qua lại…”(Trịnh Hoài Đức –Gia Định thành thông chí).
“Dời chưn bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.”
Dân xứ mình thông thạo chèo ghe, nhà nào cũng có chiếc xuồng tam bản đặng đi lại, nhiều người sống bằng nghề đi ghe bầu, ghe thương hồ quanh năm linh đinh sông nước.
Hầu hết những khu xóm làng Nam Kỳ đều có mặt tiền de ra mé sông ,dưới sông, có cái cầu làm de ra buộc sẳn chiếc ghe tam bản.
Hầu hết những con lộ của Lục Tỉnh đều chạy song song với sông và kinh rạch.
Và 100% những cái chợ Nam Kỳ đều có con sông hay con kinh dựa vô một bên. Nếu bây giờ bạn không tìm ra khúc sông nào là vì nó đã bị lấp mà thôi, thí dụ chợ Bến Thành.
Chợ đầu mới Cầu Muối và chợ Cầu Ông Lãnh nằm dựa vô kinh Bến Nghé.
Dưới chợ, trên bến sông ghe tàu nằm xếp lớp, hàng hóa vác nườm nượp lên xuống thể hiện một nền kinh tế sung túc, giàu có.
“Trai tứ chiếng, gái giang hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên.”
Ghe thương hồ Nam Kỳ hay neo ở bến chợ thường là ghe bầu và ghe chài.
Xưa tàu chở khách trên sông dân Nam Kỳ kêu là đò chèo rồi đò máy. Đò chạy theo chuyến, phân ra đò dọc và đò ngang.
Đò ngang là đò chạy từ bên này sông qua bên kia sông, nó giống như cái bắc (phà) ngày nay, đò ngang ở quê thường là những chiếc ghe nhỏ.
Đò dọc là chạy xuôi theo con sông, từ vùng này qua vùng khác, từ tỉnh này qua tỉnh kia ,thí dụ chạy dọc sông Tiền từ Mỹ Tho xuống Cao Lãnh, từ Cái Bè lên Mỹ Tho.
Người Nam Kỳ kêu đò dọc là đò chợ, chủ chiếc ghe đó được kêu là chủ đò, chiếc đò dọc rất lớn.
“Hò lơ, ho lờ!
Đò dọc lặng trôi
Trôi trên con sông đời
Đưa người lìa xa, xa bến thương
Mang theo bao vấn vương
Đời vỗ mạn thuyền nên sóng xô
Tan cuộc bình yên.”
Sông rạch nhiều đến nổi sau khi có xe chạy liên tỉnh thì bị kêu là xe đò, ngoắc xe đò để đi về quê kêu quá giang. Tức là đi đò trên sông trước, sau đi xe, quen miệng kêu là xe đò, quá giang, bà chủ xe đò.
Xe đò là xe chạy qua lại như chiếc đò dưới sông.
Xe đò là vết tích của một thời quen đi đò trên sông, từ chiếc đò tành tạch trên sông quen thuộc nay ngồi trên xe chạy trên lộ cái cũng kêu là xe đò.
Nhắc tới xe đò Lục Tỉnh thời xưa thì phải nói tới những từ có âm Tiếng Pháp và bến xe đò.
Người Nam Kỳ xổ tiếng Pháp rất nhiều, ông tài kế kêu là sốp phơ (chauffeur), sốp phơ ôm cái bánh lái kêu là ôm vô lăng (volant).
Trên xe có anh lơ xe, lơ xe từ tiếng Pháp là contrôleur là người soát vé. Người Nam Kỳ nhớ chữ leur và biến thành “lơ xe” tức là người phụ xe đò .
Khi khách lên xe, anh lơ sẽ dộng vô thành xe nói lớn “Bà con cô bác ngồi ngay ngắn, xe chuẩn bị đề pa”. Đề pa tiếng Pháp là départ có nghĩa là khởi hành, rồ máy xe chạy.
Bến xe Lục Tỉnh đầu tiên là bến xe bên hông chợ Bến Thành.
Chợ Bến Thành, Tây chép trong thư tịch là Le Marche Central, dân Nam Kỳ kêu là chợ Bến Thành, chợ Sài Gòn hay chợ Mới.
Chợ Mới nằm giữa bốn cái lộ. Mặt tiền day mặt về hướng chánh Nam theo Kinh Dịch là con lộ Place Cuniac (Bùng binh Chợ Bến Thành -Công trường Cộng Hòa-Công trường Diên Hồng.)
Mặt bắc chợ là Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Mặt tây là Rue Schroeder (Phan Châu Trinh). Phía đông là Rue Viénot (Phan Bội Châu).
Hai con lộ bên hông chợ được Pháp làm bến xe đò lục tỉnh. Lộ cửa Tây Rue Schroeder (Phan Châu Trinh) là bến xe về Miền Tây. Lộ mé đông Rue Viénot (Phan Bội Châu) là bến xe đò về Miền Đông.
Lúc bấy giờ khu chợ Sài Gòn là khu trung tâm Sài Gòn, xế bên có ga xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho thì hành khách từ xe lửa có thể đi bộ qua hông chợ Bến Thành lên xe đò đi các nơi.
Tới những năm 1940 vẫn còn bến xe hai bên hông chợ Bến Thành:
“Sài Gòn có bến Chương Dương,
Có Dinh Độc Lập, có đường Tự Do
Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho
Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm.”
Sau đó Pháp cho tản bến xe ra khỏi khu vực chợ. Miền Tây về bến xe Lục Tỉnh Petrus Ký, bến xe Chợ Lớn Bình Tây. Miền Đông dời về bến xe Nguyễn Cư Trinh, bến xe Nguyễn Thái Học.
Tới những năm 1960 thì chuyển hết về bến xe Petrus Ký. Rồi thì bến xe Petrus Ký quá tải, xe đi Miền Tây được dời ra Phú Lâm gọi là Xa cảng Miền Tây.
Các hãng xe đò ngày trước ở Sài Gòn rất mạnh, họ chạy xuống Miền Tây, ra Miền Trung, thành ra thuật ngữ “xe đò” vang danh thiên hạ.
“Bông lan má ấp miệng kề
Thương em bởi câu hò lẫn tiếng hát đưa duyên
Xe đò lục tỉnh (mà) thênh thang
Quen hơi, bén tiếng quá giang tìm dìa.”
Thời sau 1975 xe đò chở hầu hết những gì cần thiết cho cuộc sống con người từ các tỉnh về Sài Gòn, từ trái cây tới gà vịt.
Các bạn có biết chung quanh bến xe Chợ Lớn hồi đó là cái chợ gà vịt lớn nhứt Nam Kỳ lục tỉnh, chợ Xóm Vôi hay chợ bến xe Chợ Lớn.
Hàng ngày hàng vạn con gà vịt từ các tỉnh kế bên đổ về. Vì nguyên dòng họ ngoại tui đều làm nghề mua gà vịt chở về đây bán sỉ và lẻ nên tui rất rành.
Cái thời bao cấp ngăn sông cấm chợ, mấy bạn hàng gà vịt là khổ cũng nhứt nhì, lớp o bế chủ xe, lớp giấu gà vịt trên xe, lớp năn nỉ thuế vụ, chỉ năn nỉ chứ không hối lộ nhiều được vì lời lớm chẳng có bao nhiêu.
Bạn hàng gà vịt ngày nào đi bán về cũng đầy nước mắt.
Trong ký ức tuổi thơ tui còn nhớ cái hình ảnh ngoại tui mới 3 h sáng mặc ái áo lạnh len màu vàng, đầu quấn cái khăn rằn, đội cái nón lá, tay xách cái giỏ bự đựng cái cân xách tay tất tả chạy ra bờ lộ ngồi đón dân trong đồng đi đò máy ra chợ sớm, họ mang theo vài ba con gà vịt bán lấy tiền đi chợ. Sau khi gom đủ số thì ngoại đón chiếc xe đò cũng sớm nhứt chạy thẳng về bến xe Chợ Lớn.
Sau 1975 thì xe đò còn làm mưa làm gió một thời tưng bừng hoa lá, khi đó có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Đọc hồi ký Nguyễn Hiến Lê thấy anh bộ đội Bắc Việt đi xe đò.
“Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng Miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long Xuyên lên Sài Gòn nghe hai chị bình dân Miền Nam nói với nhau lên Sài Gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến… mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe.
Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội,khi xe tới bến Phú Lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa.” (Trích hồi ký Nguyễn Hiến Lê.)
Ngày nay kiểu xe đã hiện đại hơn nhưng bản chất xe đò vẫn y thinh như xưa là chạy liên tỉnh, có khác là chữ xe đò của Nam Kỳ đã biến mất, nó bị thay bằng từ “xe khách” theo kiểu ngôn từ Miền Bắc xa lạ.
Miền Nam sau 1975 đã có sự xáo trộn khi xe đò không còn được xử dụng trong văn bản của chánh quyền, thay vào là “xe khách”.
Rồi ngày nay khi mở rộng vận chuyển, các hãng xe buýt chạy qua các tỉnh liền kề ào ào thì người dân bị liệu cứ kêu là “đi xe buýt”.
Sống giữa đời mạnh hơn yếu thua, chữ xe đò nó bị yếu thế trước thời cuộc rồi!
Chúng ta phải giữ mọi thứ thuộc văn hiến kiểu Lục Tỉnh, không đoái hoài nó là có tội, cái đầu phải tinh, cái chưn phải tinh, một trái tim vững chắc.
Người Lục Tỉnh vui thì người xứ khác người trên mọi miền này cũng an hòa, sung túc theo mà thôi !
Vì Lục Tỉnh lúc nào cũng biết nghĩ cho người khác, vui cái vui của kẻ khác, buồn cái đau của kẻ khác.
Rất buồn khi chữ xe đò đã bị phai màu!
Bài: Nguyễn Gia Việt



