
Ở Lý Sơn có cái Hòn Mù Cu. Người Quảng Ngãi giải thích xưa ở đó có cây mù cu. Cây mù cu là cây gì thì chưa ai thấy. Nhưng có lẽ Mù Cu là âm Quảng Ngãi kêu chệch cây Mù U mà thôi.
Nói tới cây mù u, trái mù u thì dân Đàng Trong ai cũng biết.
Trái mù u tròn tròn, có vỏ xanh, khi chín màu vàng có cục nhưn bên trong cứng ngắc. Trái mù u có chất dầu màu vàng lục, mùi hăng hắc có thể xức ghẻ và đốt đèn ban đêm.
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Cây Gõ cái tỏ cái lu
Nước ròng em thả trái mù u
Lỡ duyên cạo trọc lên tu Núi Bà.”
Đọc lịch sử, đôi lúc tức cười mà đau đớn vì sự ngộ nhận của ông bà mình, lắm khi rất đơn giản.
Ai cũng nhận xét, té ra người Việt Nam mình trong chiến tranh vì lạc hậu quá mà có những suy nghĩ cực kỳ Việt Nam. Hồi xưa khi Pháp qua đánh Việt Nam, trận chiếm kinh thành Huế 1885 thời vua Hàm Nghi, đó là đêm 22 rạng ngày 23/5 Ất Dậu 1885.
Phe trào đình lúc đó Tôn Thất Thuyết cầm đầu phải đánh trận dằn mặt Pháp đêm đó. Họ thấy lính Pháp mang ủng cao lên tới đầu gối vậy là nghĩ rằng lính Tây không có đầu gối, chắc là đồ quái dị .
Chẳng biết ai nghĩ tới trái mù u? Vậy là lính Nguyễn đổ trái mù u và trái bàng đầy con lộ từ Mang Cá đến Đại Nội mục đích làm lính Pháp mang ủng té nhào, lính Nguyễn cứ thế nhào ra giết.
Huế trồng mù u nhiều lắm:
“Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u.”
Tuy nhiên tính già hóa non. Lính Pháp đi ủng, giày đinh kiểu “Bote de Saut”nên đạp nát trái mù u, chả có ông Tây nào trượt chưn ngã. Duy có lính Việt đi chưn không thì ngã ào ào, lớp bị Tây bắn lớp đạp lên nhau mà chết.
Sử gọi đó là trận giặc mù u. Còn chuyện mù u này là có thiệt, sử ghi ở ngay kinh thành Huế.
Đêm 04/07/1885 lính triều đình tổng tấn công vào Pháp. Sáng ra Pháp phản công bằng súng hiện đại làm quân ta chạy trối chết ,ác nghiệt thay, lính ta bị dính trái mù u trên đường nên té ngã đùi đụi, lớp trước đè lớp sau làm chết vô số kể. Thiệt là trớ trêu, gậy ông đập lưng ông cũng vì ta quá lạc hậu.
Chưa xong, tại Nam Kỳ cũng có trận giặc mù u.
Sau khi chiếm đại đồn Chí Hòa (Tháng 02/1861) rồi tiếp đến tỉnh Định Tường (năm 1862), Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Trận đánh Vĩnh Long diễn ra từ ngày 20 tháng 3 đến 23 tháng 03 năm 1862.
Trận đánh kéo dài đến tối ngày 22/03, thì các ổ đại bác của quân Nguyễn đều bị phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển cho đốt hết kho tàng, dinh thự rồi rút chạy về đồn Thị Bảo, rồi chạy thẳng lên huyện Duy Minh.
Sáng ngày 23/03, quân Pháp tiến vào chiếm đoạt thành thâu được 68 cây đại bác. Trận này dân Vĩnh Long cũng quăng trái mù u ra đường làm chậm bước tiến của lính Tây. Ca dao Vĩnh Long có câu:
“Bà già đi lượm mù u
Bỏ quên ống ngoái chổng khu la làng.”
Vĩnh Long còn di tích “Cây đa cửa hữu“ hay còn kêu là “Miếu Bà Bảy “. Tại nơi này có Đài Chiến Sĩ trận vong.
Ở Nam Kỳ có giai thoại về mù u liên quan tới trận công đồn Cần Giuộc do Quản Là chỉ huy vào đêm 16-12-1861, nghĩa quân quăng trái mù u đầy đường trước khi tập kích đồn. Sau đó thì có “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Đồ Chiểu thì biết mức độ ra sao rồi?
Lịch sử VN hàng trăm năm trở về trước không có đèn dầu hôi, đương nhiên làm gì có điện. Thời xưa, dân Bắc Kỳ, Thăng Long, Huế, Gia Định, Lục Tỉnh đốt sáng ban đêm bằng dầu mè, dầu phộng (dầu lạc và dầu vừng), sau có dầu mù u, dầu dừa, mỡ cá.
Dầu được đổ ra cái dĩa rồi cho một cái bấc dẫn dầu, cái bấc lòi ra dĩa và đốt cái đầu đó. Sau có cái đèn luôn, nó có cái vòi như cái bình trà. Tất nhiên nó tù mù và khói rất nồng.
Dân thì xài dầu phộng, dầu mè dầu mù u, còn hoàng gia thì có đèn cầy. Tuy nhiên chỉ có vua và thái hậu, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử quan trọng là xài đèn cầu, phần đông hoàng cung cũng xài đèn dầu phộng vì đèn cầy rất mắc.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi Pháp đã chiếm Nam Kỳ thì dầu hôi (dầu hỏa, dầu tây) của hãng Socony (Standard oil Company of New York) và hãng Shell (của Anh) theo chân Pháp vào Việt Nam.
Do dân Việt quen dầu phông, dầu mù u, nên dầu hôi bán không đặng. Các hãng trên nghĩ ra sáng kiến, mua dầu hôi sẽ tặng cái đèn đốt nó. Đèn làm bằng sắt Tây nên dân gọi là đèn sắt Tây, Nam Kỳ kêu là đèn dầu hôi.
Rồi đến thời kỳ xài đèn ét-xăng có manchon sáng xanh, chiều chiều có anh phu đạp xe thắp đèn ngoài đường, danh gọi là “le Lampiste”. Rồi bắt qua đèn điện có xài than, rồi lại mới có đèn điện hay neon.
Còn công ty Điện và Nước Đông Dương (Compagnie des Eaux et d’Electricité de I’Indochine) viết tắt là CEE có từ 1900 cung cấp điện độc quyền cho Sài Gòn, nguồn điện lấy từ nhà máy điện Chợ Quán.
Từ 1900 thì đường xá Sài Gòn có đèn điện, nhà cửa dân Nam Kỳ ở đô thị có ánh sáng điện.
Ở Nam Kỳ mù u nhiều vô kể. Tiến sĩ Phan Thanh Giản, người học trò già ở gãnh Mù U làng Bảo Thạnh xa xôi ai cũng quý cũng thương:
“Ta sanh ra vốn nhà nghèo
(Lương Khê thi thảo)
Lòng mến ưa cổ đạo
Đèn sách công mười năm
Không chí ở cơm áo
Tú mú học một mình
Hiểu biết chỉ lỗ mỗ.”
Có một địa danh ở Ba Tri Bến Tre mà sử Nguyễn ghi trang trọng nguyên quán vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ – Phan Thanh Giản, đó là Gãnh Mù U.
Gãnh Mù U là cái doi đất de ra mé sông Hàm Luông, cũng gần biển khi xưa các lưu dân Việt từ Trung vô Nam đi bằng che bầu đã đậu ở cái Gãnh này trước khi vào các nơi định cư khác. Tổ tiên ông Phan Thanh Giản cũng trong số lưu dân, nhưng đã chọn Gãnh Mù U định cư luôn.
Phan Thanh Giản sanh năm 1796 tại Gãnh Mù U- làng Bảo Thạnh, Ba Tri, một nơi đất đai không tốt lắm, gần biển nên mặn chát.
Ông mất mẹ năm 7 tuổi, bà mẹ kế chật vật nuôi con chồng vì ông chồng Phan Thanh Ngạn luôn đi xa. Phan Thanh Giản đi học được bà mẹ kế Trần Thị Dưỡng chu cấp lương thực gồm ba mươi tô gạo và ba mươi con mắm trong một tháng.
Nhà nghèo nên cố học, năm 1825 trào Minh Mạng thứ tám, Phan Thanh Giản đậu cử nhân tại trường thi hương Gia Định (khúc nhà văn hóa thanh niên nay). Chỉ một năm sau,1826 tại trường thi hội ở kinh đô Huế ông đậu tiến sĩ.
Tiến sĩ Phan Thanh Giản làm quan ở kinh đô Huế, chừng vài năm ông mới về quê nhà ở Gãnh Mù U, mà mỗi lần đi đều xa xôi khó khắn. Chúng ta hãy hình dung ra con đường đi thế này, từ Huế ông vô Gia Định, từ Gia Định đi ghe hay đi ngựa về Mỹ Tho, tới Mỹ Tho ông bắt ghe ở vàm rạch Mỹ Tho chạy ra sông Tiền qua cửa Đại xuyên về Ba Tri .
Miền Nam gắn bó với cây mù u, sở dĩ nói Quảng Ngãi đọc trại mù u thành mù cu có lý do. Vì người Miền Nam cũng hay lấy mù u ra chơi chữ với con cu.
“Cây mù u lá mù u
Vợ chồng cắng đắng con cu làm huề.”
Đất Nam Kỳ là đất của mù u, cứ xứ nào mà đất gần gần biển, đất de de sông mà nước lờ lợ là có mù u mọc. Mù u có nhiều tác dụng mà ngày nay hầu như ít ai còn xài, có thể kể ra dầu mù u để đốt đèn bấc kiểu xưa, dầu xứt ghẻ, trái mù u cưa đôi ra làm cán gáo múc nước mắm múc rượu .
Thời tẩu quốc ở Nam Kỳ, vua Gia Long bị Tây Sơn rượt xấc bấc xang bang, có một mùa xuân năm đó khi ghe vừa tới đất liền sau bao tháng ngoài biển, Gia Long thấy một rừng mù u đang mùa trổ bung, lòng vui sướng vì đã về tới bờ nên sau đó đặt tên cho bông mù u là Nam Mai.
Sau 1802 vua Gia Long sai trồng rất nhiều cây mù u ở Huế ,có lẽ để nhắc nhớ.
“Nhánh mù u, con bướm vàng không đậu
Câu ca từ thuở thơ dại ru sang
Sông quê, trường làng con đò trên cát lở
Cũng vì em xa mà thành điệu nhớ não lòng.”
(Lời bài hát)
Nguyễn Gia Việt