
Người Việt mình ngộ lắm, ngày đầu năm kêu là Tết. Vậy là có Tết Tây và Tết Ta. Hồi xưa ông bà mình chỉ có Tết Ta tức Tết Nguyên Đán, sau Pháp qua thì bắt đầu có Tết Tây.
“Trời bây giờ, trời đã sang xuân
Ta nhìn em, tình yêu thành gần
Mộng ước xanh như màu cỏ, dù bao lửa hạ, đông buồn
Mong xuân này em vẫn còn xuân.”
Tết Tây là Tết Dương Lịch, Tết Ta là Âm Lịch.
Lịch sử nhân loại về Tết Tây như vầy:
Lần đầu tiên trong văn minh nhơn loại, ngày 1/1 được coi là ngày Năm Mới vào năm 46 trước công nguyên, hoàng đế Julius Caesar áp dụng hệ thống lịch Julius. Trước đó, ngày đầu tiên của năm mới là ngày 1/3.
Lịch Julius chia và quy định một năm có 365,25 ngày, song thực tế độ dài của năm theo mặt trời là 365,242216 ngày, cho nên một năm theo lịch Julius dài hơn khoảng 0,0078 ngày so với năm mặt trời .
Hậu quả là làm cho có thêm một ngày dư ra sau mỗi 134 năm. Giáo Hoàng Gregorio XIII đã nhìn thấy bất tiện của lịch Julius. Bằng sắc chỉ Inter gravissimas, ngài bỏ lịch Julius Cesar và xài lịch mới Gregorien từ năm 1582, theo đó ngày đầu năm là ngày 1-1 dương lịch.
Lịch Gregorien chia một năm thành 12 tháng với 365 ngày, cứ 4 năm thì thêm một ngày vào cuối tháng 2 tạo thành năm nhuận. Tết Tây là ngày 1/1 đầu năm.
Ngày Tết Tây được tính theo dương lịch, tính theo vị tri của trái đất chuyển động chung quanh mặt trời. Ngày Tết Ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận hành của mặt trăng chung quanh trái đất.
Quy chuẩn Âm Lịch thì ngày đầu tháng là tháng mới, ngày thứ 15 là trăng tròn và 1 năm chỉ có 354 ngày, cho nên cứ 2 hoặc 3 năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày.
Cái gọi là âm lịch thì nói rất dài và nhức đầu.
Ngày âm lịch gồm có 12 giờ, đó là các giờ: Tý (23h – 1h), Sửu (1h – 3h), Dần (3h – 5h), Mão (5h – 7h), Thìn (7h – 9h), Tị (9h – 11h), Ngọ (11h – 13h), Mùi (13h – 15h), Thân (15h – 17h), Dậu (17h – 19h), Tuất (19h – 21h), Hợi (21h – 23h).
Dương lịch tính 24 h nhưng so độ dài của ngày Âm lịch bằng với độ dài của ngày Dương lịch, đều 24 tiếng đồng hồ nhưng Âm lịch bắt đầu và kết thúc sớm hơn ngày Dương lịch 1 giờ.
Chúng ta biết, Dương lịch một năm sẽ có 365 hoặc 366 ngày (đối với năm nhuận).
Âm lịch lại là vòng quay của Mặt trăng quanh Trái đất chỉ là 29,53 ngày nên một năm Âm lịch chỉ có 354 ngày, so với năm Dương lịch ngắn hơn 11 ngày. Vì vậy, cứ sau 3 năm sẽ chênh lệch đến 33 ngày, tức là chênh nhau hơn 1 tháng.
Vì thời tiết thay đổi theo Dương lịch mà mùa vụ lại tính theo Âm lịch nên để phù hợp giữa thời tiết và mùa vụ, cứ 3 năm Âm lịch sẽ có 1 tháng nhuận. Song cho dù thực hiện 3 năm nhuận 1 tháng thì năm Âm lịch vẫn sẽ chậm hơn năm Dương lịch vì 3 ngày còn dư.
Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận, tức là cứ 19 năm thì có 7 năm nhuận, và 7 năm đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Vì vậy, muốn biết năm Âm lịch có tháng nhuận hay không, chỉ cần lấy năm Dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu chia hết hoặc có các số dư là 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận.
Theo cách tính này, năm 2025 là năm nhuận âm lịch.
Dương lịch cũng có nhuận.
Trái đất mất 365 ngày và 6 giờ để quay một vòng quanh mặt trời, năm bình thường thì chỉ mất 365 ngày và dư 6 giờ nên chu kỳ 4 năm sẽ thừa đến 24 giờ, đều này là nguyên nhân hình thành năm nhuận Dương lịch.
Cứ 4 năm thì sẽ có một tháng 2 chỉ có 29 ngày, những năm này sẽ được gọi là năm nhuận dương lịch. Năm nhuận dương lịch là năm chia hết cho 4 và những năm tròn thế kỷ buộc phải chia hết cho 400.
Năm 2025 không phải năm nhuận Dương lịch.
Lịch sử lịch âm cũng có cái rất vui. Lịch âm thường được cho là của người Tàu cổ nhưng chưa biết lịch âm là của ai, Việt hay Tàu.
Vì người Việt tính tháng kiểu: “Một, Chạp, Giêng, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám, Chín, Mười”
Tàu Kiểu: Tý, Sửu, Dần, Thố, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
(Việt dổi Thố thành Mẹo).
Đọc kiểu Việt lại là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Các triều đình Việt Nam xài lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên. Sau đó xài lịch Hiệp Kỷ hay lịch Thụ Thời của Nguyên.
Nhà Minh có lịch Đại Thống tức là tên mới của Thụ Thời. Khi Thanh lên thì xài lịch Thời Hiến. Việt Nam từ năm 1812 xài lịch Thời Hiến.
Lịch Thời Hiến là Shixian Calendar.
Từ thời nhà Minh các nhà truyền giáo Dòng Tên đã mang thiên văn học châu Âu đến Trung Quốc. Giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha gốc Đức Johann Adam Schall von Bell tên Tàu là 湯若望 Thang Nhược Vọng (1591 – 1666) sang Tàu từ năm 1619 để truyền giáo,làm quan thiên văn cho triều Minh.
Thang Nhược Vọng làm Năng nghị Đại phu, Thái bộc Tự khanh, Thái thường Tự khanh, quan tam phẩm của Sùng Trinh nhà Minh. Khi Mãn Thanh dẹp Minh thì vua Thanh vẫn xử dụng ông giáo sĩ Tây này.
Năm Thuận Trị thứ 10 (1654), Thang Nhược Vọng hoàn thành bộ sách “Thời hiến lịch” (Lịch Shixian) về âm lịch được vua Thuận Trị cho làm “Thông huyền giáo sư”.
Vua Khang Hy trọng dụng Thang Nhược Vọng Năm Khang Hy thứ nhứt (1662) Thang Nhược Vọng làm Quang lộc Đại phu hàm nhứt phẩm, giám đốc Đài thiên văn Bắc Kinh.
Những năm sau đó Johann Adam Schall von Bell bị Dương Quang Tiên vu cáo. Sau này Khang Hy nhìn thấu và giải oan cho giáo sĩ Johann Adam Schall.
Âm lịch là lịch Thời Hiến, lịch Thời Hiến là lịch cải biên, chỉnh lý.
Lịch âm của Việt Nam nhìn chắc giống lịch Tàu, song nhìn kỹ có khác biệt, thí dụ các tiết của TQ rõ hơn VN.
Do chênh múi giờ nên Việt Nam phải cộng thêm 7 tiếng, trong khi Trung Quốc phải cộng thêm 8 tiếng.
Cứ 23 năm, số giờ chênh lệch cộng dồn thành 1 ngày. Do đó, một số tháng của lịch âm Việt Nam chênh nhau 1 ngày so với Trung Quốc, hình thành lên chu kì 23 năm sẽ có 1 lần Tết Âm lịch chênh nhau.
Tết các năm 1968, 1969, 1985, 2007 hai nước ăn Tết khác ngày. Trong Năm 1985 Việt Nam ăn tết trước TQ cả tháng.
Và Tết những năm Canh Tuất (2030) và Quý Dậu (2053) hai nước sẽ ăn tết không cùng ngày.
Âm lịch Việt Nam khác âm lịch Trung Quốc ở chỗ năm Sửu thì theo lịch Việt là năm con trâu, còn Trung Quốc là con bò, còn năm Mẹo ở Việt Nam là năm con mèo, thì trong lịch Trung Quốc lại là năm con thỏ.
Việt ta cùng Tàu ăn Tết âm lịch, không mặn mà Tết tây.
Tết nào cũng có giao thừa hay giao mùa.
Năm mới và năm cũ có một khoảnh chuyển tiếp, Tết Tây là đêm của ngày 31 tháng 12 (dương lịch), lúc 12 giờ khuya kêu là “Giao thừa”.
Cả thế giới theo văn hóa Tây ăn Tết, khi dân đổ ra đường uống rượu nhảy múa, ở nhà có tiệc mà Pháp gọi là “Réveillon de la Saint Sylvestre“.
“Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don’t we might as well lay down and die.
You…
And I…”
Ta có Tết Nguyên Đán.
Tết Ta trễ hơn Tết Tây và rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 tới ngày 19 tháng 2 (dương lịch). Năm nay Tết Ta là ngày 29/1/2025
“Nguyên Đán” chữ Hán Việt 元旦. Nguyên 元 mà dân Nam Kỳ mình kêu là Ngươn có nghĩa là đầu tiên, còn “đán” 旦 có nghĩa là ngày.
Ngươn Đán là ngày đầu tiên của năm, tức ngày mùng 1 Tết, tức nhiên là âm lịch.
Ngày đầu một năm rất quan trọng trong tâm linh người Việt xưa khi thiên hạ đi chơi rần rần sau một năm cực khổ làm lụng.
Lo dọn dẹp bàn thờ, nhà cửa, nhà nào cũng đi chợ mua đồ sắm sửa ăn Tết. Mấy bữa chợ Tết lúc nào cũng đông, cũng ê hề đồ ăn bày bán.
Tết Nguyên Đán tới, dầu cho bà con có khổ, có nghèo, có mệt cỡ nào cũng phải ráng bỏ qua hết, chộn rộn sắm sửa đón Tết đặng hy vong năm mới sẽ đỡ hơn năm cũ, đó còn là niềm hy vọng.
Tết khiến ai ai cũng phải mở lòng bao dung.
Bốn mùa tám tiết cứ xoay vần trong năm, đó là luật tuần hoàn của vũ trụ, nó vận hành tự nhiên, không có một quyền lực nào cản trở đặng.
Thành ra con người ta quanh năm đi riết, làm lụng tụt mồ hôi trán tay chưn rũ riệt nhưng Tết về ai cũng hồ hỡi, cũng gói gém mà mua sắm vài thứ, rồi tranh thủ về quê coi sóc mồ mả ông bà tổ tiên, đốt cây nhang khói ấm trong nhà. Xong ba ngày rồi cũng quày quả tất bật đi nữa, cuộc mưu sanh nó vậy.
“Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu có ba mươi Tết mới hay”.
Phong tục, tập quán của người Việt về ngày Tết ông bà dạy như vậy. Đó là truyền thống văn hoá của dân tộc mình.
Người Việt Nam sẽ đi qua ba sự kiện, đó là Noel, Tết Tây và sau chót là Tết Ta, đó là khoảnh khắc của một đời người. Người ta sẽ lớn lên và thương yêu nhau hơn.
“Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng:Hỏi rằng: người ở quê đâu
(Bùi Giáng).
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”