
Trong bài thơ dài “Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca”, trong phần tỉnh Rạch Giá, Nguyễn Liên Phong có nhắc tới miệt thứ qua mấy câu thơ:
“Thứ Năm, thứ Sáu, thứ Ba
Thứ Tư, thứ Nhứt, với là thứ Hai
Bảy, Tám, Chín, Mười quá dài
Tên mười cửa biển đi hoài vòng nong
Nhà dân rải rác cũng đông
Giáp Bạc Liêu hạt minh mông biển rừng.”
Nhìn như ông đếm số, nhưng ông đang điểm danh tên các xứ, đó là Miệt Thứ mà chúng ta hay nói.
Miệt Thứ là tên ghép từ hai từ Miệt và Thứ. Chữ miệt là một chữ đặc biệt của người Nam Kỳ chúng ta.
Miệt có nghĩa là gì? là cái xứ ở xa xa, ở phía trong. Trung tâm văn minh là Sài Gòn, từ Sài Gòn trổ xuống là miệt hết, trổ lên cũng miệt luôn. Thí dụ miệt Lái Thiêu, miệt Thủ Dầu, miệt Biên Hòa, miệt Tân An, miệt Mỹ Tho, miệt Cái Mơn, miệt Cao Lãnh, miệt Long Xuyên, miệt Rạch Giá, miệt Thới Bình …
Nền văn minh tiến bộ của Nam Kỳ kêu là văn minh miệt vườn, chữ “miệt” có từ xưa rồi.
Thủ Dầu Một là từ Thủ Dầu Miệt mà ra, sử Nguyễn đã ghi rành rành là Thủ Dầu Miệt (hay Dầu Một) tức là miệt có cái đồn lính bên cây dầu lớn hay chung quanh có nhiều cây dầu khác.
“Ta ăn tô cháo cá bống kèo, rau đắng
Và bỗng dưng sực nhớ miệt vườn
Con rạch nào tuổi thơ ta tắm
Mé sau hè rau đắng mọc xanh um”.
Miền Tây có miệt vườn thì ở khắp Lục Tỉnh cũng có vô số cái miệt khác. Câu ca dao xưa “Trai Hai Huyện, gái miệt vườn”. Chữ “hai huyện” là hai huyện Phước Long và Tân Bình mà trong đó có Thủ Dầu Miệt.
Hỏi chuyện một bạn trẻ như vầy:
-Em ở đây lênvậy??
-Miệt dưới anh ơi! Tri Tôn, Tịnh Biên, Bảy Núi, xa mút chỉ cà tha.
Miệt Châu Đốc, miệt Năm Căn ,miệt Trà Ôn ….Miệt U Minh rừng tràm minh mông, đi xấc bấc xang bang, nắng táp đen thùi lùi tía má nhìn không ra, tối muỗi kêu như sáo, nó chích con trâu cũng la làng.
Đó là miệt thứ, những con kinh toàn đánh số, đó là miệt Cạnh Đền, miệt Tắc Cậu, miệt Thị Tường, miệt Bảy Háp…
Thường miệt hay sát một con sông hay con kinh, rạch nào đó:
“Em yêu anh nên đành xa xứ,
Xuôi ghe chèo miệt thứ Cà Mau.”
Thứ là sao? Thứ chỉ đếm từ thứ hai cho đến thứ mười. Nhà đẻ con nhiều thì kêu thứ, người Miền Nam kêu thứ, từ Cô Hai, Cô Ba, Cô Sáu tới Cô Út, Cô Mười .. Có nhà 12 đứa con thì kêu là Cô Mười Hai.
Ông Nguyễn Liên Phong tả mười con rạch thứ mà ông ghi muốn xỉu. Thực tế có nhiều hơn thứ mười.
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Đó là vùng “Lâm Sác”, vùng Thập Câu, giới bình dân gọi nôm na đó là Miệt Thứ, là ven U Minh. Thập Câu là mười con rạch mang tên là rạch thứ Nhứt, rạch Thứ Hai… rạch thứ Mười chảy song song từ vùng đất thấp U Minh Thượng ra biển, gọi là “thập” nhưng trong thực tế hơn mười con rạch. Người địa phương lần hồi khai thác và khám phá thêm, thí dụ như rạch thứ chín rưỡi (giữa rạch thứ Chín và thứ Mười) hoặc rạch Xẻo Vẹt, Xẻo Ngát, Chà Và giả, Chà Và thiệt, rạch Ổ Heo, rạch Nằm Bếp, rạch Kim Quy…”
Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có nói về xứ Thập Câu.
Còn nhớ, nhắc lại các bạn sẽ nhới, hồi năm 2022 bạn kia viết một tut lên án chữ miệt như sau:
“Tôi không biết thằng ngu nào chế ra cái cụm từ “văn minh miệt vườn” nhưng đối với dân Miền Tây mà dùng chữ “miệt” là một cách mỉa mai. Miệt có nghĩa là xa mịt mù khỏi chân trời, là vùng đất dã man không có văn minh tiến bộ.” (??)
Một vấn đề, trên tinh thần dân chủ và cởi mở kiểu Nam Kỳ thì có thể có ý này ý khác, quan điểm của người này người kia, của anh của chị khác nhau. Nhưng đừng mạt sát kiểu như vậy.
Lỗi của người nói, trình độ hết sức hạn chế, không biết rõ, không chịu đọc sách, hoặc đọc không hiểu rồi nói “thằng ngu nào” đó nói vậy.
Ông bà Miền Nam đã nói chữ miệt mấy trăm năm nay. Sơn Nam có cuốn “Văn minh miệt vườn”. Nói hớ nặng, cho chữ “miệt” là chỉ dân ở vùng “dã man” nhưng sao lại nói, không ai nhận mình là người ở vùng “dã man” đâu.
Nói miệt vườn miệt ruộng, đồng bái không có gì là xấu, mỉa mai hay miệt thị gì hết. Chữ miệt cũng không có nghĩa là “vùng đất dã man” hay “xa mịt mù khỏi chân trời”.
Những người hiểu văn hóa Miền Nam và đọc sách nhiều sẽ hiểu điều đó.
Tại Nam Kỳ Lục Tỉnh mình không có chữ nào chỉ là nơi là vùng đất “dã man” hết. Hiểu chữ “dã man” là gì không? “Dã man” là chỉ người chưa khai hóa, ăn lông ở lỗ và có bản năng tàn sát dữ dội.
Người Miền Nam mình chưa bao giờ coi bà con cô bác mình là “dã man” hay “vùng đất dã man” dù họ ở trong vùng sâu ,trong bưng, trong biền.
Hồi xưa vua Minh Mạng vốn là một Nho sanh thuần thành nên ông đặt ra “Nam Kỳ lục tỉnh” mà cũng có vần điệu. Lục tỉnh có tên dựa theo 6 từ cuối của một câu thơ cổ: Khoái mã gia biên vĩnh định an hà (Phóng ngựa ra roi giữ an non nước).
Khoái mã nghĩa là giục, thúc cho con ngựa chạy mau mau. Thành ngữ cổ có câu “Khoái mã gia tiên”(快馬加鞭) tức dùng roi quánh mạnh thúc con ngựa chạy nhanh.
“Nhìn đoàn khoái mã song le
Hai bên là lính, cổ xe đỏ hồng”.
“Khoái mã gia biên vĩnh định an hà” mà ta có 6 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
Chữ lục tỉnh nó hay mà chơn chất lắm, lục tỉnh sau này không hiểu vì sao chỉ là ám chỉ Miền Tây.
Chẳng biết lúc nào có chữ “Miền” trong Miền Đông và Miền Tây. Nhưng trước đó ông bà ta có một chữ thực cực kỳ mùi để chỉ đất đai xứ sở đó là Miệt.
“Cần Thơ là cảnh
Cao Lãnh là quê
Anh đi khỏi xứ Tào Khê
Thoát vòng lao lý đâu dè gặp em.”
Chủ nhơn xứ miệt gồm ba dân tộc: Việt, Minh Hương và Thổ Khmer.
“Em là gái Chắc Cà Đao
Xứ quê xa lắm anh nào có hay
Thương anh còn một chút này
Gửi thuyền cho bến, gửi mây cho trời
Gặp đây là chút tình thôi
Cõng nhau đi trọn kiếp đời mai sau”.
Cùng phong tục, cùng ẩm thực, cùng tiếng nói, cùng quyền lợi xứ sổ, tất cả đều là dân Lục Tỉnh.
Cái tình Lục Tỉnh mà! sao lại không thương nhau? Thương chết giấc!
Nguyễn Gia Việt